CN, 21/07/2019 3:29 chiều | Duy An

Việt Nam đã thực hiện việc xác lập tất cả các vùng biển của mình tại Biển Đông cùng với việc thụ hưởng những quyền và nghĩa vụ tương ứng tại đây.

Trong tuyên bố đưa ra hôm 19/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết trong những ngày qua nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông.

“Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên”, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói.

Người phát ngôn cho biết Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.

Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam.

Căn cứ pháp lý quan trọng của Việt Nam trên biển

Năm 2012, Quốc hội thông qua bộ luật biển Việt Nam làm căn cứ pháp lý quan trọng cho các hoạt động của Việt Nam trên biển. Bộ luật này được soạn thảo trên tinh thần của Công ước Luật biển 1982, còn được gọi là Hiến pháp trên biển của thế giới, mà Việt Nam, Trung Quốc và tất cả các nước xung quanh Biển Đông đều là thành viên.

1. Nội thuỷ (từ đường cơ sở hướng vào đất liền): chủ quyền; 2. Lãnh hải (từ đường cơ sở tính ra biển 12 hải lý): chủ quyền; 3. Vùng tiếp giáp lãnh hải (từ đường cơ sở tính ra biển 24 hải lý): quyền tài phán; 4. Vùng đặc quyền kinh tế (từ đường cơ sở tính ra biển 200 hải lý): quyền chủ quyền + quyền tài phán; 5. Thềm lục địa (phần đáy biển kéo ra ra đáy đại dương, từ đường cơ sở từ 200 đến 350 hải lý): quyền chủ quyền và quyền tài phán.

Căn cứ vào hai văn bản pháp lý này, Việt Nam xác lập các quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình tại Biển Đông.

Nguyên tắc đất thống trị biển là nguyên tắc đầu tiên để xác lập các vùng biển với các chế định tương ứng của các quốc gia. Điều này có nghĩa là:

(1) Các quốc gia ven biển có thể xác lập các vùng biển của mình hướng ra biển.

(2) Các quốc gia sở hữu các thực thể xa bờ nổi trên mặt nước khi thuỷ triều lên (điển hình nhất là các đảo xa bờ) cũng có thể xác lập các vùng biển bao quanh chúng theo luật pháp quốc tế.

Nguyên tắc này có hệ quả quan trọng đó là khi càng hướng xa ra biển, quyền kiểm soát của các quốc gia sẽ càng bị hạn chế. Do đó, tuần tự theo hướng đi ra biển, các quốc gia sẽ có chủ quyền đối với nội thuỷ và lãnh hải. Ở các vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các quốc gia sẽ có quyền chủ quyền và quyền tài phán tương ứng với các đặc điểm khác nhau.

Từ các tuyên bố vào các năm 1977, 1982 và luật biển 2012, Việt Nam đã thực hiện việc xác lập tất cả các vùng biển của mình tại Biển Đông cùng với việc thụ hưởng các quyền và nghĩa vụ tương ứng tại đây.

Chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán

Đầu tiên, Việt Nam sẽ có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối đối với nội thuỷ của mình. Nó tương tự với chủ quyền tuyệt đối trên đất liền. Đi ra đến lãnh hải, Việt Nam sẽ có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ. Điều này có nghĩa là Việt Nam sẽ có quyền đặt ra luật và thi hành các luật này cho tất cả các hoạt động ở cột nước, vùng trời và đáy biển trong lãnh hải.

Tuy nhiên, các tàu thuyền nước ngoài sẽ có quyền đi lại vô hại (đi một cách nhanh chóng, liên tục và khẩn trương) trong lãnh hải.

Đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, Việt Nam sẽ có các quyền kiểm soát liên quan đến các vấn đề an ninh như hải quan, nhập cư, và vệ sinh môi trường.

Trong vùng đặc quyền kinh tế, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với các hoạt động khai thác kinh tế đối với tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động khai thác năng lượng trong cột nước và đáy biển.

Quyền chủ quyền có thể hiểu là quyền độc quyền khai thác và sử dụng của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các quốc gia khác chỉ có thể tiến hành các hoạt động kể trên nếu được Chính phủ Việt Nam cho phép dưới hình thức phổ biến nhất là các hiệp ước với các điều khoản quy định chặt chẽ về việc khai thác này.

Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ lên án hành động của Trung Quốc tại Biển Đông. Ảnh chụp màn hình. 

Ngoài ra, các hoạt động khác liên quan đến việc xây dựng đảo nhân tạo, các cấu trúc phục vụ cho hoạt động đi biển, nghiên cứu khoa học hay bảo vệ môi trường trong khu vực đặc quyền kinh tế đều nằm trong quyền tài phán của Việt Nam. Điều này có nghĩa Việt Nam có quyền đưa ra các quy định liên quan đến các lĩnh vực trên và lực lượng hành pháp của Việt Nam có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để đảm bảo các quy định trên phải được tuân thủ bởi không những các tàu thuyền của Việt Nam mà kể cả các tàu thuyền nước ngoài đi lại trong khu vực này.

Liên quan đến thềm lục địa, có nhiều trường hợp các quốc gia ven biển có thềm lục địa kéo dài chỉ có 200 hải lý và cột nước phía trên nó cũng là vùng nước đặc quyền kinh tế. Nhưng với các điều kiện địa chất thuận lợi, Việt Nam nằm trong số các quốc gia có thể mở rộng thềm lục địa ra xa hơn.

Năm 2009, Việt Nam đã nộp hồ sơ mở rộng thềm lục địa của mình cho Uỷ ban ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc và đang chờ sự xác nhận của cơ quan này.

Tuy nhiên, trong thềm lục địa 200 hải lý, Việt Nam đã có đầy đủ các quyền chủ quyền ở tại đây mà không một sự chiếm đóng hay khai thác của các quốc gia khác có thể làm ảnh hưởng đến tính chất pháp lý của thềm lục địa Việt Nam.

Quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở thềm lục địa tương tự các quyền này ở vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên, luật biển quốc tế nhấn mạnh rằng các hoạt động khoan vào thềm lục địa dù dưới bất cứ hình thức hay mục đích gì đều phải tuân theo các quy định và quản lý của Chính phủ Việt Nam.

Quyền tự do đi lại của tàu thuyền nước ngoài

Đối với cột nước của vùng đặc quyền kinh tế hay cột nước nằm trên thềm lục địa, các tàu thuyền của các quốc gia khác có quyền tự do đi lại.

Mặc dù vậy, các hoạt động này phải cần lưu ý và không được có bất cứ hành động nào liên quan đến các hoạt động khai thác kinh tế và các công trình được các quốc gia ven biển xây dựng tại đây. Thậm chí, luật biển quốc tế còn cho phép các quốc gia ven biển thiết lập các vùng an toàn không quá 500m bao quanh các công trình của mình.

Việc tôn trọng các vùng an toàn này là nghĩa vụ bắt buộc của tất cả các tàu thuyền, bất chấp quốc tịch, khi đi lại tại đây.

Vùng biển VN ở Biển Đông là độc lập, không chồng lấn

Như vậy, hiện giờ Việt Nam đã cơ bản hoàn thành các nghĩa vụ pháp lý quốc tế để xác lập vững chắc các vùng biển của mình từ đất liền và các đảo gần bờ.

Căn cứ vào phán quyết của Toà trọng tài phụ lục VII trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc, các thực thể tại quần đảo Trường Sa không thể thiếp lập các vùng biển xa hơn 12 hải lý xung quanh nó, có thể nói các vùng biển của Việt Nam độc lập và không bị chồng lấn với các vùng biển tạo ra từ quần đảo này.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã và đang tiến hành phân định biển với các quốc gia láng giềng ở phía bắc, Trung Quốc, đến các quốc gia ở vùng biển phía Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia và Campuchia.

Bất cứ hành động nào xâm phạm đến các quyền đã kể trên của Việt Nam đều vi phạm luật biển Việt Nam và luật biển quốc tế.

Điều này đã được khẳng định một lần nữa trong tuyên bố của Việt Nam vào ngày 19 tháng 7 liên quan đến các hành vi khiêu khích của tàu Trung Quốc tại vùng biển đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Ngày 20/7 Washington cũng ra thông cáo chỉ trích việc Trung Quốc can thiệp vào “các hoạt động thăm dò và khai thác từ lâu của Việt Nam” trên Biển Đông.

“Mỹ quan ngại về các thông tin Trung Quốc can thiệp vào hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Đông, trong đó có hoạt động thăm dò từ lâu của Việt Nam (ở đây)”, thông cáo viết.

“Các hành động khiêu khích liên tiếp của Trung Quốc nhắm vào hoạt động thăm dò dầu khí của các bên đe dọa tới an ninh năng lượng khu vực và ảnh hưởng tới thị trường năng lượng tự do và mở ở Ấn Độ – Thái Bình Dương”, thông cáo từ người phát ngôn Morgan Ortagus nêu.

“Trung Quốc nên dừng ngay các hành động bắt nạt và không thực hiện các hành vi khiêu khích, gây bất ổn”, người đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ nhấn mạnh

Theo: Ths. Phạm Ngọc Minh Trang (news.zing.vn)

 

 

Bài viết cùng chuyên mục